Đề kiểm tra cuối năm môn Tiếng Việt Lớp 3 (Đọc thành tiếng) Sách Kết nối tri thức với cuộc sống - Năm học 2022-2023 - Đề 5
SỰ TÍCH ÔNG ĐÙNG, BÀ ĐÙNG
Ngày xửa ngày xưa, ở sứ Mường Bi xuất hiện một đôi vợ chồng cao lớn khác thường. Họ đứng cao hơn năm lần đỉnh núi cao nhất. Người Mường gọi họ là ông Đùng, bà Đùng, nghĩa là ông bà khổng lồ.
Hồi ấy, đất thì cao thấp, lồi lõm. Cây cối hoang dại mọc chằng chịt. Nước thì chảy từ lòng đất, ngập lênh láng khắp nơi. Thấy vậy, ông Đùng, bà Đùng liền ra tay. Chỉ một ngày, ông bà đã nhổ cây, san đất, làm thành cảnh đồng bằng phẳng, rộng rãi, lấy chỗ cho dân ở và cày cấy.
Ông Đùng bàn với vợ làm một con đường dẫn nước đi, tránh nước đào lênh láng. Ông Đùng lom khom dùng tay bới đất đằng trước, bà Đùng vét đất đằng sau. Họ làm việc suốt ngày đêm, cùng trò chuyện vui vẻ. Thế rồi, theo con đường ông bà Đùng đào bới, nước đã chảy thành dòng, vượt qua đồi núi, đổ về xuôi. Đó chính là con sông Đà ngày nay.
Xong mọi việc, ông bà Đùng ngẩng đầu nhìn lại mới biết: Do vét đất ban đêm, không nhìn rõ, dòng sông đã không thẳng. Nơi chưa được vét, đất đá cản trở dòng chảy và tạo thành thác ghềnh. Vì thế sông Đà mới ngoằn ngoèo, có tới “trăm bảy mươi thác, trăm ba mươi ghềnh” như bây giờ.
(Theo Truyện cổ dân tộc Mường )
Học sinh đọc đoạn 1 và trả lời câu hỏi:
Câu 1: Ông Đùng, bà Đùng có điểm gì khác thường về ngoại hình?
Trả lời:
Họ đứng cao hơn năm lần đỉnh núi cao nhất.
Học sinh đọc đoạn 2 và trả lời câu hỏi:
Câu 2: Kể lại những việc ông bà Đùng đã làm khi chứng kiến cảnh đất hoang, nước ngập.
Trả lời:
Ông Đùng, bà Đùng liền ra tay. Chỉ một ngày, ông bà đã nhổ cây, san đất, làm thành cảnh đồng bằng phẳng, rộng rãi, lấy chỗ cho dân ở và cày cấy.
File đính kèm:
- de_kiem_tra_cuoi_nam_mon_tieng_viet_lop_3_doc_thanh_tieng_sa.docx
Nội dung text: Đề kiểm tra cuối năm môn Tiếng Việt Lớp 3 (Đọc thành tiếng) Sách Kết nối tri thức với cuộc sống - Năm học 2022-2023 - Đề 5
- ĐỀ 5 Hãy đọc 1 đoạn của bài : Sự tích ông Đùng, bà Đùng (bộ sách Kết nối tri thức sách Tiếng Việt 3 tập 2 trang 98, 99) và trả lời các câu hỏi sau: SỰ TÍCH ÔNG ĐÙNG, BÀ ĐÙNG Ngày xửa ngày xưa, ở sứ Mường Bi xuất hiện một đôi vợ chồng cao lớn khác thường. Họ đứng cao hơn năm lần đỉnh núi cao nhất. Người Mường gọi họ là ông Đùng, bà Đùng, nghĩa là ông bà khổng lồ. Hồi ấy, đất thì cao thấp, lồi lõm. Cây cối hoang dại mọc chằng chịt. Nước thì chảy từ lòng đất, ngập lênh láng khắp nơi. Thấy vậy, ông Đùng, bà Đùng liền ra tay. Chỉ một ngày, ông bà đã nhổ cây, san đất, làm thành cảnh đồng bằng phẳng, rộng rãi, lấy chỗ cho dân ở và cày cấy. Ông Đùng bàn với vợ làm một con đường dẫn nước đi, tránh nước đào lênh láng. Ông Đùng lom khom dùng tay bới đất đằng trước, bà Đùng vét đất đằng sau. Họ làm việc suốt ngày đêm, cùng trò chuyện vui vẻ. Thế rồi, theo con đường ông bà Đùng đào bới, nước đã chảy thành dòng, vượt qua đồi núi, đổ về xuôi. Đó chính là con sông Đà ngày nay. Xong mọi việc, ông bà Đùng ngẩng đầu nhìn lại mới biết: Do vét đất ban đêm, không nhìn rõ, dòng sông đã không thẳng. Nơi chưa được vét, đất đá cản trở dòng chảy và tạo thành thác ghềnh. Vì thế sông Đà mới ngoằn ngoèo, có tới “trăm bảy mươi thác, trăm ba mươi ghềnh” như bây giờ. (Theo Truyện cổ dân tộc Mường ) Học sinh đọc đoạn 1 và trả lời câu hỏi: Câu 1: Ông Đùng, bà Đùng có điểm gì khác thường về ngoại hình? Trả lời: Họ đứng cao hơn năm lần đỉnh núi cao nhất. Học sinh đọc đoạn 2 và trả lời câu hỏi: Câu 2: Kể lại những việc ông bà Đùng đã làm khi chứng kiến cảnh đất hoang, nước ngập. Trả lời:
- Ông Đùng, bà Đùng liền ra tay. Chỉ một ngày, ông bà đã nhổ cây, san đất, làm thành cảnh đồng bằng phẳng, rộng rãi, lấy chỗ cho dân ở và cày cấy. Học sinh đọc đoạn 3 và trả lời câu hỏi: Câu 3: Việc làm của ông bà Đùng đã đem lại kết quả như thế nào? Trả lời: Kết quả đó chính là con sông Đà ngày nay.